1. Cảm nghĩ về việc lần đầu làm nghệ thuật đương đại
Em
còn nhớ hồi năm nhất, em đã làm một tập portfolio gửi sang Đại học
nghệ thuật quốc gia ở Paris (ENSBA). Trong đó toàn bộ là tranh giá vẽ và
hình họa. Hình họa thì vẽ khá cẩn thận, mà em nghĩ hình họa em cũng khá
nên mới gửi sang. Phần tranh sơn dầu thì vẽ nhiều kiểu khác nhau, ba
dính một rời cũng có mà trừu tượng luyên thuyên cũng có. Tập hồ sơ được
“hộ tống” bởi 7 cái thư giới thiệu của nhiều người, chức vụ khác nhau, ở
trong và ngoài nước. Nói chung là rất cẩn thận, hoàn chỉnh (theo quan
điểm ở Việt Nam). Thế nhưng nó lại bị loại ngay từ vòng sơ loại.
Đau
khổ và tiếc tiền, em quyết định tìm cho ra nhẽ tại sao em bị loại. Em
cũng gửi thư cho nhiều bạn học bên Pháp, gửi thư cho nhiều xưởng họa bên
đó và hỏi han nhiều người. Sau cùng em phát hiện ra là những thứ em có,
người ta lại không cần. Người ta cần một thứ gì đó đại loại là đương
đại hơn, ý tưởng sâu hơn và có dấu ấn cá nhân hơn.
Lúc đầu
thì em cũng rất ấm ức, nhưng sau này khi em lớn hơn một ít thì em thấy
là mình thiếu thốn nhiều. Việc thiếu kiến thức về các xu hướng khiến
mình bị lạc hậu. Dù về sau, họa sĩ định sáng tác theo kiểu gì thì cũng
không thể không quan tâm tới các xu hướng mới. Đối với sinh viên thì
việc được tiếp cận với những ý tưởng mới nhất là việc rất quan trọng.
Trước
đến nay, em luôn băn khoăn về một thứ nghệ thuật gần với công chúng
hơn. Em xin so sánh với âm nhạc, một loại hình song song với mỹ thuật.
Mặc dù âm nhạc có nhiều thể loại, nhưng chưa bao giờ nó bị tách khỏi
công chúng. Người ta nghe nhạc và thích (hay không thích nó) một cách tự
nhiên mà không bao giờ bận tâm là mình không đủ kiến thức như Mỹ thuật.
Em
thấy có một điều là âm nhạc có nhạc luật - cái đảm bảo cho việc nó được
gọi là nhạc. Nhưng mà em cũng không tìm thấy cái gì có thể gọi là "mỹ
thuật luật" cả. Lần đầu làm nghệ thuật đương đại, em lần đầu tiên có
được sự định hướng để truy tìm bản chất của những quy luật trong mỹ
thuật. Những cái đấy, nếu chỉ vẽ tranh nhiều, chưa chắc đã hiểu ra.
Cảm nghĩ về Dự án nói riêng
Lúc
đầu nói thật em khá bối rối về dự án vì nó có quá nhiều thứ mới mẻ. Dù
cho em giả bộ nhiệt tình nhưng thực sự là bên trong em rất nản và hơi
đối phó. Sau này triển lãm kết thúc, em mới cảm ơn bản thân vì đã cố mà
theo đến cùng.
Cuối cùng thì, điều quí giá nhất mà em thu
lượm được ở Dự án, đấy không phải là kinh nghiệm hay sự ra mắt công
chúng, mà đấy là các mối quan hệ. Lần đầu tiên sau ba năm học trong
trường em mới thấy gần gũi các giảng viên như thế. Cảm giác mà sinh viên
được tôn trọng và có thể tự tin bảo vệ quan điểm của mình là một cảm
giác trên cả tuyệt vời. Sự tự tin là rất quan trọng trong mọi ngành chứ
không riêng gì nghệ thuật và sinh viên cần có nhiều những người bạn lớn
hơn là những thầy giáo chỉ biết chấm điểm. (Chính vì thái độ cởi mờ của
các giảng viên mà em rất cảm thấy không ngại ngùng khi viết về nhiều
điều trong bài cảm nghĩ này, nếu bình thường em sẽ không viết).
Nói
về các mối quan hệ, em đã được làm bạn với nhiều bạn ở khoa khác, khóa
khác. (Trong trường rất ít khi các khoa có cơ hội nói chuyện với nhau,
vì không có hoạt động nào chung). Và không những làm bạn bè vui vẻ với
nhau, những sinh viên trong dự án còn được trao đổi, phê bình lẫn nhau.
Và không khí thật là vui vẻ chứ không mang tính chất ăn thua.
Dự
án đã tạo cơ hội cho họ được lần đầu tiên thực hành các kĩ năng nghề
nghiệp, cho nhiều khoa. Tiếc là không có được sự tham gia của khoa đồ
họa (thiết kế thiếp mời chẳng hạn). Trong lần sau thực hiện, dự án nên
có một ban chuyên săn tài trợ và nên chia hoa hồng cho ban này.
Nếu năm nay là năm bản lề, thì sự kiện bản lề của năm bản lề trong đời sinh viên của em chính là cái dự án này.
Phạm Ngọc Hà Ninh (SV Khoa HH)
2. Cuộc chơi đầy lí thú
Khi
tôi bắt đầu viết những dòng này thì dự án “Thực hành nghệ thuật sắp đặt
và video art” đã bước sang giai đoạn triển lãm tác phẩm. Như vậy, đây
chính là thời điểm tôi và những người bạn đang đứng ra ngoài tác phẩm để
quan sát, lắng nghe phản hồi từ công chúng về những đứa con tinh thần
của mình. Tôi thực lòng không bao giờ muốn làm to tát một chuyện gì.
Chính vì thế, tôi chỉ gọi đây là một cuộc chơi, một cuộc chơi lí thú đầy
màu sắc của những sinh viên ham mê nghệ thuật thị giác mà thôi.
Có
lẽ không chỉ riêng tôi mà tất cả những người tham gia cuộc chơi này từ
thầy Hậu Anh, cô Diệu Hương cho đến 17 bạn sinh viên đều có một tâm
trạng chung - hứng khởi vì những gì đã, đang và sẽ diễn ra.
Đây
là một hoạt động ngoại khóa của trường, cô Diệu Hương đề xuất, cùng tổ
chức và hướng dẫn với thầy Hậu Anh. Lúc đầu khi được thông báo về dự
án, bản thân tôi không mấy quan tâm và nghĩ rằng “nó” sẽ nằm trên giấy
tờ khá lâu đấy... Nhưng, có thể do sự tò mò về một hoạt động mở này nên
tôi đã tham gia với trạng thái “không thèm chuẩn bị một điều gì ”. Rất
may, quả thật là may mắn, vì cuối cùng tôi được chọn tham gia. Cuộc chơi
bắt đầu.
Bản thân tôi khi bắt đầu đến với dự án, tôi
không có nhiều kiến thức, cảm nhận, chứ chưa nói đến kinh nghiệm về nghệ
thuật thị giác đương đại. Có lúc tôi thấy “choáng” vì mình bắt đầu bằng
một số 0 tròn trĩnh. Quanh tôi, bạn bè tôi, họ đã và đang nói nhiều,
nhiều lắm về những gì mới mẻ, lạ lẫm đã, đang và sẽ diễn ra. Cuộc chơi
bắt đầu bằng những tìm hiểu mang tính lý thuyết và tự trải nghiệm thông
qua việc xem các thế hệ đi trước đã làm gì. Nói thật lòng, những lúc
nhận được tin nhắn hay điện thoại từ cô Diệu Hương thông báo kiểm tra
thư điện tử về tiến độ dự án, tôi rất ...lo lắng. Tôi chưa thấy tự tin
lắm!
Ban đầu cuộc chơi này lấy “Hà Nội đương đại” làm chủ
đề mở cho mọi người thỏa sức sáng tạo. Tôi đã lùng sùng mọi “ngóc ngách”
của Hà Nội để tìm cho ra một từ hay cụm từ mô tả đặc sắc nhất về Hà Nội
đương đại. Hóa ra, mình mang tiếng ở Hà Nội nhưng tôi chẳng biết gì về
nơi đây. Thế là một kế hoạch khá chi tiết cho việc tìm hiểu về lịch sử
văn hóa, nghệ thuật của mảnh đất này được hình thành. Khá nhiều câu hỏi
đã được đặt ra cho mọi người và chính mình.Tôi bắt đầu chú ý hơn về
những điều rất nhỏ đang diễn ra hàng ngày quanh mình. Và Hà Nội đã có
màu sắc, hình khối, đường nét hơn trong những suy tư của tôi.
Nhưng,
do một số lý do, cuối cùng chủ đề đã thay đổi. Chúng tôi tự do thể hiện
ý tưởng của mình. Cuộc chơi bước sang giai đoạn mới. Tôi cũng như mọi
người thời gian đầu hình thành khá nhiều ý tưởng, nhưng qua mỗi lần thảo
luận, lại thấy mình cần có những suy tư nhiều hơn nữa, tìm cho mình một
cách tư duy riêng.
Tác phẩm “Chơi” của tôi ban đầu được
lên ý tưởng chính từ cuộc sống của mình. Tôi muốn thể hiện một phần cuộc
sống của những người nhập cư đang cố gắng hết mình để có một chỗ đứng
trong xã hội mới, để mở được cánh cửa cuộc đời. Hành trình ấy, có người
đã thành công, nhưng có người đành chấp nhận quay về hoặc luôn luôn đặt
cho mình một câu hỏi “Tại sao?”. Vì thế tôi chọn hỉnh ảnh ổ khóa và chìa
để thể hiện. Tôi đã định sẽ sắp đặt 100 ổ khóa đủ màu sắc, hình dáng,
chủng loại, kích cỡ, cũ mới....thành một cánh đồng khóa. Người xem sẽ
tương tác với tác phẩm của tôi bằng cách tìm đúng chiếc chìa khóa để mở.
Tôi xem đó cũng như một cuộc chơi.
Và tôi dấn thân vào
cuộc chơi của mình. Khi hình thành ý tưởng thì tôi chưa thể tưởng tượng
được rằng, làm sắp đặt khác với vẽ chì, than, màu bột, sơn dầu...nhiều
lắm. Nếu tôi vẽ, mọi thứ luôn sẵn sàng, chỉ cần có đủ tiền đi ra cửa
hàng họa phẩm ... Nhưng, bây giờ tôi cần 100 ổ khóa và chìa. Và phải là
những ổ khóa đã, đang được dùng để hiệu quả thẩm mỹ sẽ cao hơn. Tôi lên
kế hoạch sẽ gọi điện, gặp mặt và hỏi thăm ít nhất 100 người để có được
100 ổ khóa. Tôi lân la các cửa hàng đồng nát, các điểm sửa chữa khóa,
các cửa hàng đại lý khóa...để hỏi mua, thuê, mượn. Tôi thấy khá tự tin
với kế hoạch của mình. Tôi tưởng tượng ra lúc mà đứa con tinh thần được
phôi thai sẽ hấp dẫn người xem như thế nào...Tôi, có lúc nhắm mắt tưởng
tượng ra cái cảnh một vài người đang loay hoay với cánh đồng khóa của
mình để đi tìm cánh cửa cuộc đời...và tôi tự cười một mình
Thế
nhưng, mọi thứ không như tôi tưởng tượng. Hầu hết những người được tôi
hỏi đều nhìn tôi hoặc lắng nghe thật kĩ rồi cười bảo “Ừ, khóa à, thế nhà
tớ sẽ lấy gì để khóa cửa đây???”. Tôi quên mất một điều khá hiển nhiên
rằng, nhà nào cũng có khóa, nhưng khóa là để cất giữ tài sản thì làm sao
họ có thể cho tôi mượn cả ổ lẫn chìa? Khi nhìn lại nhà mình thì hóa ra,
mình cũng chỉ có 1 cái thôi. Còn tất cả các cửa hàng đồng nát thì họ
trả lời tôi rằng họ là cửa hàng đồng nát thì lấy đâu ra khóa đang dùng
được? Các điểm sửa chữa khóa bảo rằng họ sẽ bán cho tôi một ít khóa bị
...hỏng với giá của ...sắt vụn. Nhiều người cho rằng tôi khá hài hước và
..mơ mộng.
Tôi, có lúc đã định thay đổi kế hoạch. Nhưng,
trước sự động viên của nhóm và 2 thầy cô giáo, tôi tiếp tục. Tôi bắt đầu
nhận được sự ủng hộ từ một số người. Tôi cũng bắt đầu có những thay đổi
nho nhỏ để ý tưởng được khả thi hơn. Tôi hỏi mua những loại khóa nhỏ,
giá tiền...rẻ nhất, thậm chí tôi còn thỏa thuận với các cô chủ hàng khó
tính rằng, khi triển lãm xong tôi sẽ... bán lại cho họ. Thật may mắn, có
người đã thông cảm cho cảnh sinh viên làm nghệ thuật. Mặt khác, tôi
thay đổi ý tưởng thiết kế giá treo. Tôi chọn hình thức giá treo nhỏ gọn
và khả năng tương tác cao hơn, để trông giống một trò chơi hơn. Và kết
quả là bạn bè tôi đều bảo trông cái giá ấy giống cái giá ...treo áo quần
cho trẻ em. Cuối cùng tôi cũng có đủ khóa, với số lượng khá khiêm tốn
so với dự định ban đầu (33 ổ khóa) nhưng lại khá phù hợp với thiết kế
nhỏ gọn của mình.
Cuộc chơi của tôi tiếp tục với nhiều ý
kiến đóng góp từ cách trang trí, đến cách sắp đặt mọi thứ sao cho phù
hợp và nổi bật ý tưởng. Tôi và Hằng (lớp Lý Luận) và một số người bạn
chăm chút cho đứa con rất cẩn thận. Và đến những giây phút cuối cùng,
khi được tham khảo thêm ý kiến, tôi quyết định thay đổi một chút về ý
tưởng. Tôi không đóng khung tất cả trong ý tưởng ban đầu. Tác phẩm của
tôi là “Chơi”. Cuộc sống của chúng ta, thực chất là một cuộc chơi. Khi
dấn thân vào bất kì cuộc chơi nào, chúng ta không chỉ có trải nghiệm về
nó mà còn hiểu hơn ai hết khả năng, bản lĩnh của chính mình. Cuộc chơi
nào cũng có kết thúc, người nhận được phần thưởng là người có chút may
mắn nhưng điều quan trọng nhất chính là họ đã dám chơi, dám làm điều
mình mong muốn. Đi tìm chìa để mở khóa còn là mở thêm một cánh cửa mới,
mở thêm cơ hội mới. Tại sao chúng ta không chơi và tìm ra một cánh cửa
mới ?
Trong buổi khai mạc, đã có những người “chơi” với
tác phẩm của tôi. Họ đã cho tôi thêm nhiều cảm nhận và cũng có rất nhiều
cảm nhận từ họ. Có những cảm nhận khác với cảm nhận của tôi, có những
chia sẻ thật nhẹ nhàng nhưng sâu sắc.Cuộc triển lãm vẫn đang diễn ra, có
thể sẽ có thêm nhiều ý kiến khác nhau nữa, cũng có thể có thích thú,
cũng có thể có người sẽ đi qua nhưng không nhìn thấy đứa con của tôi.
Nhưng, có một điều chắc chắn rằng, tôi đã làm ra nó với tất cả nỗ lực
của chính mình. Tôi biết rằng mình đang “Chơi”.
Nói một lời “cảm
ơn” đôi khi sẽ rất khách sáo nhưng tôi thấy cũng rất cần. Cảm ơn tất cả
những người đã đồng hành, tham gia cuộc chơi đầy lí thú này cùng tôi,
đặc biệt là thầy Hậu Anh và cô Diệu Hương!
Nguyễn Kim Nga (SV Khoa HH)
3.
Mấy tháng trước khi cầm tờ Phiếu điều tra sinh viên và câu hỏi kiểm tra
trình độ cho việc tuyển chọn sinh viên tham gia Dự án thử nghiệm Sắp
đặt và Video art, tôi cũng như các bạn trong Dự án đều có chung một suy
nghĩ: cứ điền đại đi chẳng biết câu đấy hỏi gì và cũng không quan tâm
đến loại hình nghệ thuật mới này. Mình có được chọn hay không cũng hề
hấn gì cả, miễn sao là làm cho xong thủ tục của tờ lựa chọn cho môn học
ngoại khóa.
Một thời gian sau, khi được cô Diệu Hương
thông báo là tôi được chọn vào Dự án và hỏi tôi có khẳng định vẫn luôn
muốn tham gia hay không, nghĩ rằng mình chẳng biết Sắp đặt là gì cả,cũng
chưa được học Video art bao giờ, mà nói chung là mấy môn nghệ thuật mới
này tôi cũng không hiểu lắm nên cũng không được hứng thú lắm. Thôi thà
để thời gian nghiên cứu thêm kĩ thuật sơn dầu có phải tốt hơn không?
Nghĩ thế nên tôi trả lời đúng theo ý mình, nhưng cô Diệu Hương bảo đây
là một Dự án thực nghiệm có thể giúp tôi có một cái nhìn nhận mới về
Nghệ thuật đương đại và có thêm trải nghiệm mới, hơn nữa cũng sẽ không
quá mất thời gian cho việc học chính khóa và bước đầu sẽ chỉ trao đổi
việc học qua Email. Vậy thì tôi đồng ý! Thôi, kệ . làm thì làm, tham
gia thì tham gia.
Ban đầu là tìm hiểu về một số tác giả có
tên tuổi trên thế giới cũng như ở Việt Nam và sau đó là định nghĩa nghệ
thuật Sắp đặt. Tất cả mọi thứ đều mới,tôi mơ hồ định nghĩa về nó, chỉ
mang máng hiểu Sắp đặt là đặt những vật trong không gian tạo ra một
không gian tạo hình đa chiều, và không gian đấy có thể tương tác với
người xem. Suy nghĩ của tôi cũng thật mơ hồ và định nghĩa về nghệ thuật
Sắp đặt cũng mơ hồ theo. Tôi nghĩ rằng khi làm một cái gì đó, nếu mình
không hiểu được bản chất của nó thì chắc chỉ có thể làm ra một thứ sản
phẩm vô giá trị. Nghĩ vậy nên qua một số lần gặp,tìm hiểu và tham gia
các hoạt động của Dự án, tôi nhận ra rằng mình phải có trách nhiệm với
bản thân mình và với nhóm Dự án của mình. Tôi đã tự nhủ mình sẽ phải cố
gắng suy nghĩ ra một ý tưởng nào đấy thật thời đại, thật lớn lao. Phải
làm cho ra làm ! Tôi cố gắng đưa từ ý tưởng nọ đến ý tưởng kia, nào là:
“Chỗ đứng của ta” ( tác phẩm tôi định miêu tả về sự nhập cư vào thành
phố, con người chen lấn nhau đến mức không có chỗ đứng), nào là “ Khăn
mặt cuộc sống” ( nói về sự bon chen, bươn chải của người dân lao
động.)....Nhưng khi đưa ra thảo luận thì những ý tưởng đó của tôi không
chặt chẽ từ ý tưởng cho đến hình thức thể hiện. Tôi chưa có đủ trải
nghiệm về sự “đau đời” hay đủ “bế tắc” nên những ý tưởng tác phẩm tôi
đưa ra đó còn hời hợt và chạy theo xu thế. Hơi nản chí, tôi đã định
không tham gia , không tìm hiểu, hay thảo luận gì nữa, vẽ hình họa thôi,
học chuyên ngành thôi, cố gắng học cho giỏi được chuyên ngành của mình
đã là tốt rồi. Nhưng cũng thật là lạ, nghĩ thế rồi nhưng tôi lại vẫn cứ
suy nghĩ về nó và một ý nghĩ chợt hiện lên trong đầu tôi. Tại sao không
làm một tác phẩm liên quan đến bản thân mình, cuộc sống của mình có bao
nhiêu là tâm sự, mình có thể giải bày, có thể chia sẻ bằng ngôn ngữ nghệ
thuật mới. Tại sao không nhỉ?
“Mơ” đấy là cái đầu tiên
tôi nghĩ đến.Trong cuộc sống hay trong mỗi giấc ngủ những giấc mơ luôn
hiện hữu như một cái bóng hay một cái gương phản chiếu những khát vọng
trong tâm hồn của mình. Giấc mơ nó xa xôi, nó mờ ảo, nó phi thường, nó
ám ảnh... trong mơ tôi buồn, tôi vui, tôi khóc ,tôi cười và chỉ có trong
mơ tôi mới gặp lại người mà tôi nghĩ rằng tôi không bao giờ gặp lại
được nữa; đó đó là Bố mình. Những suy nghĩ , những tâm sự đã giúp tôi
hình tượng hóa nó thành tác phẩm . Ở đây tôi nhận ra rằng nghệ thuật
giúp tâm hồn mình được giải thoát, nghệ thuật giúp ta đóng lại cánh cổng
quá khứ và mở ra cánh cổng tương lai, nghệ thuật giúp ta xóa mờ những
ám ảnh; và hơn thế nữa nghệ thuật làm ta cảm thấy hạnh phúc hơn .
Khi tham gia Dự án, mọi kiến thức thu nhận được với tôi thật vô giá,
chúng sẽ góp phần là nền tảng cho sự phấn đấu nghề nghiệp của tôi sau
này. Nhưng điều quan trong nhất mà tôi có được là sự chia sẻ, lắng nghe
của Thầy, của Cô và những người bạn đã đồng hành cùng tôi trong Dự án.
Tất cả mọi người đã góp phần giúp tôi phát triển ý tưởng, hoàn thiện
tác phẩm và chúng tôi đã cùng nhau cố gắng để có sự thành công của triển
lãm ngày hôm nay.
Lê Thị Thúy (SV Hội họa K52)
4. Viết về triển lãm “Sinh viên làm nghệ thuật” E.A.T
Có
nhiều người từng hỏi em: sao mà mình lại không biết về dự án này? Những
người như thế nào thì được tham gia vào dự án? Làm dự án này chắc vui
lắm? Vâng, dự án EAT không chỉ là 1 cuộc vui chung đầy thú vị mà còn là
cơ may cho một sinh viên mới bước vào môi trường nghệ thuật như em.
Trải
nghiệm của em sau triển lãm này có thể rút gọn thành 3 cụm từ “tận dụng
thời gian”, “kiên trì ý tưởng” và “niềm vui làm nghệ thuật”.
Khi
vừa phải đảm bảo công việc học vừa phải đảm bảo tiến độ thực hiện tác
phẩm em nhận ra mình có cách quản lý thời gian không khoa học. Cũng vì
không biết tận dụng thời gian hiệu quả mà buổi khai mạc triển lãm đã gặp
những rắc rối nhỏ, lẽ ra đã có thể tránh được. Thời gian là của mình,
tuy nhiên một khi đã trôi qua không lấy lại được, do đó nó còn quý hơn
cả tiền bạc. Thường khi ta nhận ra giá trị của thời gian là lúc ta đã
phí phạm quá nhiều. Khi chỉ còn ít ỏi thời gian để làm 1 cái gì đó thì
hình thành tình trạng “nước đến chân mới nhảy” và căn bệnh “stress” dạng
nhẹ. Những điều “giá như” sau khi buổi khai mạc đi qua khiến em nhận
thấy mình cần sử dụng thời gian 1 cách hiệu quả hơn nữa.
Với
ý tưởng cho tác phẩm “Bến”, em và chị Nguyệt đã không ít lần muốn thay
đổi nó, dần dần thấy mất phương hướng; dẫn đến tình trạng đi quay video
toàn những cảnh lan man không đúng chủ đề. Nhờ sự giúp đỡ tận tình của
thầy Hậu Anh và cô Diệu Hương mà chúng em đã kiên trì theo đuổi ý tưởng
của mình đến cùng. Trong quá trình tạo ra tác phẩm thì sự “kiên trì”
theo đuổi ý tưởng mình đã đặt ra là rất quan trọng, bởi nếu bản thân
mình không có bất kỳ ràng buộc nào cho tác phẩm của mình thì mọi thứ sẽ
đều thừa thãi quá giới hạn, cuối cùng chính tác giả sẽ tự hỏi: thật ra
tác phẩm này muốn nói cái gì? Thật ra nó tên là gì?...
Ngoài
những kinh nghiệm quý thu thập được thì em cũng được trải nghiệm cảm
giác hứng thú khi cùng các thành viên trong nhóm thực hiện tác phẩm. Ở
những buổi trao đổi, mọi người cùng đưa ra ý tưởng và tranh luận sôi nổi
thoải mái. Không khí trong những ngày chuẩn bị cho triển lãm tạo cho em
cảm giác đồng điệu, bình đẳng, đặc biệt là sự gần gũi tận tình của các
thầy cô. Đây là điều mà dù ở lớp học vẽ hay tự vẽ ở nhà, em đều không
thấy được, sự hào hứng cùng một chút thi đua khiến em có nhiều động lực
để làm việc hơn.
Sau khi triển lãm kết thúc em nghĩ rằng
mình và các bạn cùng nhóm, ở một mặt nào đấy, sẽ thay đổi tích cực hơn
và nhất là sẽ thêm yêu thích nghệ thuật sắp đặt và video art.
Nguyễn Ánh Tuyết _ Lớp HH II- A
5. TÁC PHẨM “B Stop”
Tôi đã từng đi học bằng xe Bus, thời gian ấy không dài, nhưng có lẽ cũng đủ để tôi hiểu và cảm nhận nhiều hơn về Một “bến” chờ.
Ở
đó, tôi bắt gặp nhiều cảm xúc khác nhau trên những khuôn mặt. Tôi tự
đặt ra cho mình những câu hỏi và trí tò mò đã khiến tôi muốn khám phá
những cảm xúc đó. Trên “Bến” chờ ấy có phải, ai cũng may mắn được bước
lên tuyến xe của mình? Hay mãi chỉ là ngồi ở “Bến”?. Điều đó khiến tôi
liên tưởng đến những “bến đời”.
Ai cũng có nhiều ước muốn,
có ước muốn là có chờ đợi. Phải chăng chờ đợi cho chúng ta một mục
đích để sống, một động lực để vươn tới. Trong chờ đợi, tôi chuẩn bị và
xây dựng cho mình, chính ước muốn và sự chờ đợi đã nhào năn nên cuộc
sống của tôi. Có nhiều việc người ta đạt được là nhờ chủ động tìm kiếm,
nhưng đôi khi thì phải biết đợi chờ. Đâu phải cái gì cũng nằm trong tầm
tay của chính mình? Đâu phải cứ khi nào ta cố hết sức thì mọi sự mong
muốn đều sẽ đến? Đâu phải cứ lúc nào ta muốn là được?
Khi
nói đến “Bến” chắc hẳn không ít ai là không nghĩ tới một không gian nhộn
nhịp, xô bồ, chen lấn. Nhưng trong tác phẩm này, chúng tôi muốn đưa cảm
nhận tĩnh xung quanh cái động. Đó là một chuỗi tâm trạng và cảm xúc
khác nhau trên “Bến” đợi.
Nếu như cuộc sống thực, là sự
mòn mỏi, chờ đợi những chuyến xe thì tại sao chúng ta lại không tìm một
cái gì đó để cân bằng nó. Đó chính là một không gian ảo mà chúng tôi
muốn đưa vào bên cạnh sự mệt mỏi. Không gian “Ảo” là mặt đối lập với
không gian “thực” và cũng là mặt đối diện của thực tại.. Trong tác phẩm
này, người xem có thể thay đổi điểm nhìn và có những cảm nhận khác nhau.
Có bao giờ bạn muốn khám phá vũ trụ?
Có
bao bao giờ bạn muốn quay trở về với quá khứ để thay đổi tương lai?
đứng giữa thực tại, bạn đang ước mơ điều gì? Cảm thấy bế tắc trong cuộc
sông? bạn sẽ thoát khỏi nó? Đó là những đối lập trên lộ trình “Bến” của
chúng tôi. Nếu ở kia là những “Bến” đời thì tôi tin rằng họ sẽ tìm thấy
những lối đi riêng cho mình.
Để làm nên một tác phẩm hoàn
chỉnh thật không đơn giản như tôi vẫn thường nghĩ. Nó cần có thời gian,
có tìm tòi, sự sáng tạo và phải yêu cái mình muốn tìm kiếm, tạo cho mình
một cảm hứng. Nghệ thuật bắt nguồn từ cuộc sống, thật giản dị, có những
điều ta cho nó là tầm thường nhưng đôi khi
nó lại mang giá trị nghệ thuật không nhỏ.
Để
làm ra một tác phẩm trước tiên phải hiểu được bản chất của nó, từ đó ta
mới sáng tạo. Từ biển báo điểm dừng xe bus chúng tôi cũng cần đo đạc,
cân nhắc, lựa chọn chất liệu phù hợp.
Trong những buổi đi quay,
chúng tôi gặp không ít những khó khăn, bởi “bến” luôn là chỗ đông người,
những việc làm của chúng tôi gây chú ý, khiến họ rất tò mò, những ánh
mắt thật khó hiểu, cũng có người thế này người thế kia, nhưng sự chờ đợi
mệt mỏi trên “Bến” kia đã khiến họ quên đi chúng tôi, và dần đối diện
với cảm xúc thật của chính mình. Chúng tôi cảm thấy tan dần đi cái mệt
mỏi và giá lạnh của một ngày đi tìm kiếm, khi chúng tôi được đứng quan
sát và đồng cảm với sự chờ đợi của họ.
Là một trong số
những sinh viên được tham gia vào dự án, tôi vô cùng vinh dự. Qua dự án
này, được trải nghiệm qua 4 giai đoạn từ bước đầu thực hiện tuyển chọn
cho đến khi hoàn thiện tác phẩm, tôi đã khám phá ra những điều tưởng như
rất đời thường trong cuộc sống. Qua con mắt nghệ thuật mỗi khía cạnh
của cuộc sống được nhìn nhận và thể hiện bằng tư duy sang tạo, tự do
phát triển ý tưởng về những thông điệp bằng những chất liệu mới.
Tôi đã từng nghe một câu nói rất hay rằng: “ Có cái mà chờ đợi còn hơn
không có gì để chờ đơi”. Tuy rằng sự chờ đợi rất mệt mỏi và khủng khiếp
nhưng tất cả đều hướng tới một mục đích, một ước mơ. Chính vì vậy,
qua tác phẩm này tôi muốn gửi tới các bạn một thông điệp rằng “ Hãy biết chờ đợi”.
Nguyễn Minh Nguyệt (SV HH K52)
6. E.A.T. (Exercitation Art Term) – Dự án mở dành cho sinh viên
Những
năm đầu thế kỷ 21, khi những loại hình nghệ thuật mới du nhập vào nước
ta, có rất nhiều workshop, triển lãm dành cho sinh viên Mỹ thuật được tổ
chức dưới sự hướng dẫn của nghệ sĩ nước ngoài. Một thời gian dài sau
đó, các hoạt động này dần dần lắng xuống. Cho đến khi “Dự án thực nghiệm
nghệ thuật sắp đặt và video art được tổ chức”, đánh dấu cho sự trở lại
của không khí làm nghệ thuật sôi nổi dành riêng cho sinh viên.
Triển
lãm của 16 sinh viên tham gia dự án, với tên gọi “Sinh viên làm nghệ
thuật, E.A.T” (kéo dài từ ngày 4.1 đến ngày 10.1.2012 tại Viet Art
Centre, 42 Yết Kiêu, Hà Nội) là kết quả của quá trình thực nghiệm với
một chuỗi những hoạt động học thuật về lý thuyết cũng như thực hành phát
triển các ý tưởng. Hai loại hình tưởng như còn rất mới trong chương
trình giảng dạy của nhà trường, được các sinh viên vận dụng theo những
cách hiểu khác nhau. Tất cả mang đến một không gian triển lãm đa sắc
màu, đa trạng thái và sáng tạo trong việc sử dụng các chất liệu. Tư duy
sáng tạo và cá tính riêng của từng bạn sinh viên thể hiện qua mỗi tác
phẩm. Họ không chỉ mang đến triển lãm cái nhìn đơn thuần về cuộc sống,
mà còn gợi ra những cảm quan thông qua cách sống và ứng xử với các vấn
đề của xã hội. Bên cạnh đó là những tâm sự cá nhân kín đáo gửi gắm qua
ngôn ngữ của nghệ thuật. Không thể nói rằng, các “sinh viên làm nghệ
thuật” này có thể đại diện cho tiếng nói của cả một lớp trẻ ngày nay.
Nhưng cũng không thể phủ nhận rằng, các tác phẩm đã tìm thấy sự đồng cảm
của ít nhiều khán giả.
Điều thú vị nhất của triển lãm này
là cho người xem biết được rằng khi sinh viên làm nghệ thuật, có gì
khác cách thông thường các nghệ sĩ vẫn làm? Họ làm nghệ thuật như thế
nào khi không có tên tuổi của những giám tuyển nổi tiếng đứng ra bảo
trợ, không hề có một khoản tài trợ nào, không có studio riêng, không có
nhiều thời gian vì còn phải chia sẻ cho việc học tại trường...? Và theo
như những gì khán giả đã thấy, các tác phẩm của các bạn sinh viên sáng
tạo ra đều mộc mạc nhưng rất chân thành. Họ góp nhặt những vật dụng có
sẵn, cố gắng sử dụng những nguyên liệu rẻ tiền nhất nhưng lại chỉn chu
đến cùng cho đứa con tinh thần của mình. Nhìn vào thành quả được trưng
bày có thể thấy họ đã nỗ lực trong giới hạn cho phép của mình và có
trách nhiệm với những gì mình mang ra trước công chúng. Khán giả không
đến xem họ vì tò mò trước tên tuổi hay lời quảng cáo trước triển lãm, mà
để ủng hộ cho sự khiêm nhường, mong muốn được học hỏi của các nghệ sĩ
tương lai. Cũng có thể nói, khán giả đã phần nào góp phần tạo ra sự đặc
biệt cho triển lãm này. Quan sát trong những ngày diễn ra triển lãm,
thành phần khán giả đến xem rất phong phú. Trước hết là sự có mặt của
hầu hết các nghệ sĩ là giảng viên trong trường, cả những người rất ít
khi có mặt tại những hoạt động nghệ thuật đương đại hiện nay. Còn có rất
nhiều bạn đang học hay làm ở các lĩnh vực khác nhau đến để ủng hộ cho
bạn mình làm triển lãm. Họ chia sẻ rằng, đây là cơ hội cho họ lần đầu
tiên được tiếp xúc với nghệ thuật và thấy được nhiều điều thú vị. Nhiều
giảng viên của các trường khác cũng tới xem với mục đích tham khảo hoạt
động ngoại khóa của sinh viên trường Mỹ thuật... Nghệ thuật nhận được sự
quan tâm của đông đảo các tầng lớp, đó là một điều đáng khích lệ. Hy
vọng điều này sẽ tiếp tục được phát huy, để tình trạng trong nhiều triển
lãm hiện nay, khán giả đến xem chỉ toàn là người trong giới nghệ thuật
và báo chí.
Một điểm đáng chú ý của “Sinh viên làm nghệ
thuật”, đó là ở tính chất thử nghiệm xuyên suốt mọi hoạt động của triển
lãm. Trước tiên, đây là kết quả đầu tiên của “Dự án thử nghiệm nghệ
thuật sắp đặt và video art” (do hai giảng viên trường Đại học Mĩ thuật
là Lê Trần Hậu Anh và Phạm Diệu Hương đề xuất và hướng dẫn). Các tác
phẩm hầu như cũng là những sáng tạo đầu tay được đưa ra trước công chúng
của các bạn sinh viên tham gia dự án. Các tác giả cũng không ngại lựa
chọn rất nhiều hình thức làm sắp đặt cũng như video art. Họ vận dụng
nhiều kiến thức mình góp nhặt được trong quá trình học, và áp dụng cách
hiểu khác nhau đối với hai loại hình còn khá mới mẻ trong nhà trường:
bắt đầu từ những khái niệm như site-specific (tạm hiểu là thay đổi không
gian), ready-made (sử dụng những vật thể có sẵn), sự tương tác với môi
trường và khán giả... Sau quá trình tìm hiểu lý thuyết và tham khảo từ
tài liệu về các nghệ sĩ trên thế giới, các sinh viên được lựa chọn cách
thức mà mình cảm thấy có cảm hứng nhất để làm tác phẩm. Chẳng hạn như
trong tác phẩm “Lọt khe, len lỏi và xen kẽ”, bạn Nguyễn Hồng Ngọc (sinh
viên Lý luận K12) đã sử dụng vật liệu như gạch lát đường, vỏ hướng dương
để tạo ra một cảnh tượng quen thuộc nhưng lại trở nên mới lạ trong
không gian triển lãm. Ngọc chia sẻ đó là sự ảnh hưởng từ “Một trăm triệu
hạt hướng dương” của Ai Wei Wei. Điều khác Ai Wei Wei dùng phiên bản
hướng dương bằng sứ còn Ngọc lại chọn những vỏ hạt thật. Hay như “Vô đề”
của Trịnh Nhật Vũ (sinh viên Hội họa K52). Đó là hai cánh cửa được dán
đầy những vỏ đĩa CD đã qua sử dụng, mà không mấy ai nhận ra tác phẩm nếu
như không được chỉ dẫn. Tác phẩm của Vũ có thể chưa thành công trong
việc diễn tả ý đồ, nhưng mục đích biến đổi không gian đã hoàn toàn được
thực hiện. Theo Vũ, đó chỉ là tác phẩm mang tính chất khơi gợi và dẫn
dắt. Sử thử nghiệm còn ở chính việc trưng bày các tác phẩm chỉ với một
con số dán bên cạnh mà không có bảng đề tên tác giả - tác phẩm như cách
thông thường. Mục đích của việc làm này là hướng người xem đến việc
thưởng thức nghệ thuật thực sự bằng chính những gì họ thấy và cảm nhận
được, chứ không phải những ngôn ngữ hoa mỹ đánh lừa. Bản thân tác phẩm
sẽ quyết định việc khán giả có hiểu và đồng cảm hay không. Điều này cũng
khiến các nhà báo mất thời gian xem tác phẩm hơn là chỉ đến và đưa tin
đúng theo những gì đã ghi sẵn ở triển lãm. Tất cả những thử nghiệm trên
gộp lại, với một mong muốn chung là góp phần mang lại “sự trong sạch”
của nghệ thuật. Nghệ thuật là kết quả sự thăng hoa cảm xúc, lòng đam mê
nghệ thuật và mang đến cảm xúc thật cho khán giả.
Nhưng
vẫn phải nói rằng, trong triển lãm, vẫn còn nhiều tác phẩm còn thể hiện
rõ sự thiếu sót về mặt kỹ thuật và tạo hình, nên chưa truyền tải hết
được ý đồ của tác giả. Một vài tác phẩm sắp đặt mang có hơi hướng mang
tính minh họa hoặc tái hiện lại cảnh tượng trong thực tế cuộc sống. Các
tác phẩm video art nói chung chưa làm rõ được ngôn ngữ đặc trưng của
loại hình. Video có ý tưởng nhưng còn quá đơn giản, thể hiện sự hạn chế
và chưa được đầu tư công sức đúng mức của tác giả. Một vài thành viên
trong dự án cũng chia sẻ rằng họ chưa hài lòng với tác phẩm của mình.
[m1] Bên cạnh những nguyên nhân khách quan như điều kiện cơ sở vật chất,
không gian trưng bày chưa đáp ứng được nhu cầu, thì nguyên nhân chủ
quan do kiến thức của các bạn sinh viên về loại hình cũng như các lý
thuyết liên quan còn chưa đầy đủ. Đây cũng là vấn đề được nhắc đến trong
buổi tọa đàm “Sinh viên làm nghệ thuật” (diễn ra chiều ngày 6.1.2012,
một trong những hoạt động học thuật bên lề triển lãm).
Triển lãm
“Sinh viên làm nghệ thuật” cùng nhiều hoạt động khác đã khép lại nhưng
đã đánh dấu những bước đầu tiên cho những dự án dành riêng cho sinh viên
trường Mỹ thuật. Dù các tác phẩm chưa thực sự hoàn thiện và còn nhiều
điều cần học hỏi, nhưng đó là cơ hội tốt cho các sinh viên được làm việc
trong môi trường nghệ thuật. Bước đệm ấy là cần thiết cho con đường
tương lai của các bạn. Hy vọng trong tương lai, Dự án sẽ tiếp tục nhận
được nhiều sự ủng hộ hơn nữa để phát triển và mở rộng phạm vi hoạt động
của mình.
Trần Hoàng Ngân (SV Khoa LL&LSMT)
7.
Dự án triển lãm “ sinh viên làm nghệ thuật” được giảng viên cùng vớ
imột nhóm các sinh viên thuộc hai khoa hội họa và lý luận tổ chức lần
đầu, tuy mới chỉ dừng lại ở mức độ nghiệp dư, mang tính thử nghiệm
bước đầu nhưng cũng đã thu hút được sự chú ý nhất định đối với báo chí
và công chúng yêu nghệ thuật tại Hà Nội. Các tác phẩm được trưng bày
trong triển lãm chính là tâm tư tình cảm, là cái nhìn rất riêng của
mỗi sinh viên đối với cuộc sống. Đó có thể là cái nhìn đầy yêu thương
về quá khứ, về những ký ức tuổi thơ. Đó cũng có thể là cái nhìn đầy
thực tế về cuộc sống hiện tại với rất nhiều chuyển động không ngừng,
nhiều điều ẩn giấu, nhiều thực trạng đang từng ngày từng giờ diễn ra
xung quanh mỗi chúng ta. Hoặc đơn giản, đó chỉ là một vận may, một
chút giải trí nho nhỏ giữa bộn bề cuộc sống. Do những tác phẩm được
làm bằng ngôn ngữ khá mới, đó là sắp đặt và video art nên việc thực
hiện tác phẩm của sinh viên còn gặp nhiều bỡ ngỡ, dẫn đến việc đôi khi
hình thức thể hiện vẫn chưa thực sự với tới nội dung cần truyền tải.
Tuy nhiên, đây sẽ trở thành bước đệm quan trọng giúp những sinh viên
làm nghệ thuật có thể tìm ra hướng đi sau này cho việc theo đuổi ước
mơ của mình.
Triệu Thanh Tú (SV Khoa LL&LSMT)
8.
Nghệ
thuật Video art và Sắp đặt xuất hiện tại Việt nam đã được gần 20 năm,
dù thoái trào hay đang hưng thịnh, thì sự nở rộ của phong trào làm các
loại hình nghệ thuật mới này cũng là một tín hiệu đáng mừng cho những
quan điểm đánh giá khắt khe về nghệ sĩ tạo hình đương đại của lối tư
duy quản lí của nền Mỹ thuật Việt Nam một thời. Tuy nhiên, song hành với
sự “mở cửa” này, nền Mỹ thuật đương đại cũng nên đặt ra những phương
hướng cho mình trong việc mở ra một lối đi riêng, hướng tới mục tiêu
không còn lạc hậu về tư duy tạo hình, phải có bản sắc và tiếng nói nghệ
thuật. Trước hết là việc tìm được chỗ đứng trong chính tiến trình lịch
sử nghệ thuật của chúng ta, sau đó mới là mục tiêu vươn tới đồng hành
cùng sự phát triển của nghệ thuật đương đại trên thế giới. Để thực hiện
thành công được những tiêu chí đó, thì phải có các hoạt động đào tạo Mỹ
thuật.
Cho đến nay, tại các trường đào tạo mỹ thuật trong
cả nước, tạm thời vẫn có chưa có bộ môn nào nghiên cứu chuyên sâu, và
coi Nghệ thuật Đương đại là một môn học, việc thực hành Mỹ thuật Đương
đại trong nhà trường gần như còn thiếu hụt và bị bỏ ngỏ. Mặc dù vậy,
việc trao đổi về các loại hình nghệ thuật mới của các sinh viên Mỹ thuật
đang học tập trên ghế nhà trường, hay thậm chí là các sinh viên không
chuyên ngành Mỹ thuật lại không hề thiếu vắng tại các diễn đàn và triển
lãm Đương đại hay các sự kiện liên quan. Đó là một tín hiệu đáng mừng,
cũng là một vấn đề khiến các nhà đào tạo Mỹ thuật băn khoăn về việc thực
nghiệm một chương trình chính thức dành cho sinh viên nhà trường được
trực tiếp thực hành nghệ thuật mới, dưới một mô hình lý thuyết và đường
hướng cụ thể. Xét cho cùng, nghệ thuật mới dù có mới đến đâu, cũng cần
một nền tảng để các sinh viên - những nghệ sĩ tương lai không đi chệch
hướng. Nắm bắt nhu cầu học hỏi và nhìn thấy năng lực làm việc của sinh
viên, tháng 8 vừa qua, một Dự án thực hành nghệ thuật đương đại dành cho
sinh viên đã được triển khai tại trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam dưới
sự điều hành của hai giảng viên khoa Hội họa- Thạc sĩ Lê Trần Hậu Anh và
giảng viên khoa Lịch sử Mỹ thuật Việt Nam- Thạc sĩ Phạm Diệu Hương.
Trải qua 3 tháng tuyển chọn các sinh viên tham gia, lên kế hoạch làm
việc và bổ sung kiến thức lý thuyết về Sắp đặt và Video Art, lên phác
thảo ý tưởng và phát triển các tác phẩm, dự án Sinh viên làm Nghệ thuật
đã có một buổi triển lãm cùng tên tại Viet Art Center 42 Yết Kiêu trưng
bày 13 tác phẩm sắp đặt và video art của 14 sinh viên trong nhóm 17 sinh
viên tham gia dự án.
Với tư cách một trong 17 sinh viên
tham gia dự án từ những ngày đầu tiên nhưng lại không có tác phẩm trực
tiếp trưng bày, tôi xin phép đưa ra một vài nhận định cá nhân trong bài
viết của mình về sự kiện lần này dưới góc độ một người xem triển lãm Sắp
đặt và Video Art trước khi mạn bàn về những vấn đề liên đới khác.
Hiếm
có lần nào phòng trưng bày của VietArt lại sống động và có không khí tự
thân từ tổ hợp các tác phẩm như thế. Từ khi nhìn thấy cánh cửa đóng mở
phòng trưng bày, người xem bắt đầu được đi vào không gian riêng của nhóm
nghệ sĩ. Mở đầu là hai tác phẩm “Không đề” của Trịnh Nhật Vũ, và “Lọt
khe, len lỏi và xen kẽ” của Nguyễn Hồng Ngọc có nhiệm vụ trực tiếp đưa
người xem vào thế giới của 14 sinh viên trẻ. Rất nhiều báo chí đăng tin
không nhận ra sự hiện diện của tác phẩm của Ngọc, nó bị nhầm lẫn với con
đường bình thường nào đó chúng ta gặp trên phố. Thế nhưng, chính điều
đó làm tôi đánh giá cao hơn vai trò của tác phẩm này trong tổ hợp trưng
bày phía trái của phòng triển lãm, giải quyết vấn đề bố cục không gian
cho gian trái. Ngoài ra, chính những statement đơn giản thậm chí là ngô
nghê bâng quơ của các sinh viên trong triển lãm này, càng khiến cho tác
phẩm nói được nhiều hơn những gì người ta đọc được trên giấy[m1] . Ngọc
thích nhìn những hạt hướng dương rải rác trên những con đường Hà Nội,
nơi giới trẻ đang có một văn hóa cộng đồng mới mang tên “văn hóa trà
đá”. Bởi Ngọc là một người trẻ trong số đó, những vỏ hạt hướng dương có ý
nghĩa đặc biệt với cô, sự hiện diện còn sót lại của chúng trên những kẽ
gạch rung động cô. Ngoài điều đó ra, cái tên Ngọc chọn ắt hẳn ẩn chứa
nhiều hơn một văn hóa “teen teen” rải rác đầy trên phố. Là những điều
nhỏ bé vô thưởng vô phạt trên đường đời chúng ta phải chú ý thì mới có
thể nhận ra, phải có đủ tình yêu và gắn bó mới nhìn thấy chúng có hiện
diện. Cuộc sống rất quen mà cũng rất lạ như con đường có hướng dương hay
bị các nhà báo bỏ sót trong danh sách các tác phẩm này vậy. Chỉ cần họ
tinh ý, chỉ cần ta cúi nhìn xuống những con đường.
Từ “Lọt
khe, len lỏi và xen kẽ”, chúng ta sẽ thấy không gian triển lãm vào sâu
bên trong giống như cuộc sống ngoài cánh cửa phòng triển lãm- mà “Không
đề” mang nhiệm vụ ranh giới tâm hồn chúng ta với thực tại kia. Là bất kì
góc đường nào ta có thể gặp ở Hà Nội, mỗi tác phẩm lại cho ta vị trí
của một điểm nhìn nơi phố. Thật khéo mà video của Nguyễn Thúy Nguyệt và
Nguyễn Ánh Tuyết lại được chiếu lên một góc tường như thế, rồi kết hợp
với sắp đặt đi kèm. Thử hình dung bó hẹp “Bến” của Nguyệt và Tuyết trong
một cái màn hình ti vi, chúng ta sẽ không thể chọn một chỗ gần tác phẩm
của Vi Phương Thảo - lại là một góc phố quen nào đó khác - để bị kéo
vào cái hình dung rằng mình cũng đang chờ đợi ngao ngán hay sốt ruột vội
vã chuyến xe cuộc đời mình[m2] . Cuộc sống trên phố- những người trẻ
thấy gì, họ gửi hết vào tác phẩm- trông bình dị như điều ai cũng có thể
nhìn được- nhưng cần lắng lại thêm để cảm được.
Ở góc này
của phòng trưng bày, không thể bỏ qua tác phẩm của Phạm Hoàng Tuân
“Ranh giới”- một tác phẩm gây chú ý ở các góc nhìn. Chọn hình tượng nghệ
thuật khéo léo, sử dụng ngôn ngữ tạo hình thông minh, Tuấn đã khoanh
vùng cho tác phẩm của anh một khoảng đẹp trong ấn tượng của nhiều người
tới xem triển lãm ngày đầu tiên. Không chỉ có vậy, tính xã hội của tác
phẩm của rất cao, phản ánh thực trạng nhức nhối mang tính thời sự về nạn
sử dựng rượu bia khi tham gia giao thông. “Càng cấm càng làm- như dù có
biển cấm đi ngược chiều thì chúng ta vẫn ngang nhiên cho phép mình phá
luật nhiều hơn”- phải chăng đó là những lỗ hổng trong ý thức của người
Việt Nam? Như là những ranh giới giữa biết và thực hiện?
Quay
lại vấn đề bài trí không gian cho triển lãm này, có thể nói, nhóm Dự án
đã đồng thời đảm nhiệm chức vụ curator cho chính mình- lại thêm một
điều thành công nữa của các sinh viên và hai giảng viên hướng dẫn.
Bên
cạnh đó là video “Xoay” của Triệu Thanh Tú và “Bí mật” của Trần Hoàng
Ngân, cũng là những góc nhìn trẻ khác về cuộc sống xung quanh họ. Với
những sắp đặt và nhịp suy nghĩ riêng, mà chúng ta cũng sẽ tìm được sự
đồng cảm trong nó.
Trong mười bảy sinh viên tham gia dự
án, 91 là năm sinh muộn nhất, Phạm Ngọc Hà Ninh, với “Thăm kí ức” đã
đóng góp một tiếng nói 9x “đời cổ lỗ sĩ” nhất hiện nay, khi mà tuổi teen
từ 92, 93 đang phát triển theo một hướng khác. Thời mà tất cả những gì
Ninh có gợi lại ký ức về Hà nội những năm đầu mở cửa, thoát khỏi thời kỳ
bao cấp. Đồng cảm với Ninh ở tuổi đời và quá khứ của một học sinh Phổ
thông chân ướt chân ráo vào trường Nghệ thuật, cũng có những dòng lưu
bút rất ngô nghê, cũng có những lá thư đã nâng niu rồi đốt bỏ, tôi nhìn
thấy từng tầng kí ức của mình trong sắp đặt của bạn. Nhìn thấy một thế
hệ chúng tôi, đã đi qua và chưa đi qua hết văn hóa và sự ra đời- biến
mất của nhiều vật dụng gắn với tuổi niên thiếu và trưởng thành của mình-
một kí ức được đổ composite lay động [m3] trong tôi sự xúc động lạ kì.
Có thể nói, Ninh đã đóng gói toàn bộ kí ức của mình, từ buồn- vui, được-
mất, bạn bè- gia đình, kỉ niệm hay nuối tiếc lại… một tác phẩm mà chúng
tôi đùa là “rất Ninh”… Vì nó “rất Ninh” nên nó ý nghĩa với thế hệ chúng
tôi, và vẫn đang nuôi lớn chúng tôi đi tiếp.
Cuộc sống
mang tính tự sự hơn ở gian phải của triển lãm, sau Ninh, “Mơ” của Lê Thị
Thúy là một tác phẩm khác khiến tôi bị tác động mạnh. Trong quá trình
làm việc của dự án, được nghe Thúy trình bày phác thảo ý tưởng và kế
hoạch thực hiện, tôi vẫn không thể hình dung được điều tác phẩm của chị
có thể mang lại cho đến khi tận mắt xem trực tiếp nó. Những giấc mơ
trong hình thù màu mè bắt mắt nhưng có lẽ, với những tâm hồn có nhiều
vết thương thầm kín và ám ảnh lên tuổi trưởng thành, thì tác phẩm của
Thúy có thể khiến họ nghẹt thở hoặc rơi nước mắt khi bước vào bên trong.
Là câu chuyện thật của tác giả, có lẽ phải đến tận nơi và nhìn tận mắt,
sống trong nó để nâng niu những gì mình đang có trong đời.
Đồng
cảm, chắc phải dùng một từ “đồng cảm”, với đa phần những tác phẩm trong
triển lãm này. Nghệ sĩ trẻ nói rất ít, chỉ có tôi là cứ đi đọc ra những
điều có thể đúng, có thể trúng- có thể không về những gì họ giữ cho câu
chuyện của mình. Bùi Minh Hà với “Dù sao thì cũng phải đứng nghiêng”
hay “Bữa sáng” của Đỗ Tường Linh, hay “Chơi” của Nguyễn Thị Kim Nga- đều
là chúng tôi- những người trẻ với vấn đề cuộc sống không bao giờ cũ.
Quá
khứ, hiện tại, tương lai và những trăn trở, những nuối tiếc, những vui
buồn đồng hiện trong triển lãm này. Thôi dù sao thì cũng hãy cứ vui, như
điều mà “Không gian tuổi thơ” của Trần Văn Phong đã mang lại được cho
những người đến tham gia buổi khai mạc ngày mồng 4 tháng 1 vừa qua.
Không gian của Phong đúng là một cái sân chơi ngày xưa lũ trẻ con hàng
xóm chúng tôi vẫn hay tụ tập nhau lại, là cả góc sân và khoảng trời
những đêm Rằm phá cỗ… Chắc cũng chỉ cần có thế, dù đôi mươi, sinh viên
chúng tôi- trong buổi khai mạc hộ anh tác phẩm bằng việc ùa vào chơi ô
ăn quan, đứa nào cũng thấy mình hẵng còn trẻ.
Việc chỉ có
sơ đồ hướng dẫn vị trí sắp xếp tác phẩm và thông tin liên quan đến tác
phẩm lại chỉ được đưa ra khi không để thông tin tác phẩm ngay bên cạnh
các tác phẩm như vẫn thường thấy ở các triển lãm khác có lẽ sẽ khiến
nhiều người nghĩ rằng đó là sự sơ suất của triển lãm. Nên báo chí đưa
tin cũng loạn hết cả lên. Mặt yếu là sự thiếu sót ai cũng thấy và đáng
ra phải có để người xem tiện theo dõi, nhưng mặt khác- có lẽ là để cho
cái thế giới ấy sống trong cảm nhận riêng của người xem trước đã. Cuối
cùng, trước khi mọi người ra về, chúng tôi sẽ gửi lại statement, lúc đó,
hãy xem xem, cảm nhận của bạn có khác nhiều không? Cho bạn sống với thế
giới của chúng tôi, nếu bạn cũng thở cùng một nhịp, hay phản biện lại
nó, triển lãm Đương đại này ắt hẳn đã thành công rồi.
Bên
cạnh hội họa giá vẽ, một nhánh khác của Mỹ thuật vẫn đang phát triển
mạnh mẽ và đóng góp tiếng nói không hề nhỏ trong thời kì này. Chỗ đứng
của Mỹ thuật Đương đại đã và đang tìm cho mình vị trí sánh ngang với Mỹ
thuật trong Bảo tàng như những thời kì trước. Qua quá trình làm việc
trong Dự án Sinh viên làm Nghệ thuật, ít nhiều chúng tôi đã nhìn được
những mặt mạnh và yếu của nghệ thuật sắp đặt hay video art hiện nay. Làm
thế nào để tác phẩm có ý nghĩa, làm thế nào để nó tồn tại? Vật chất hay
ý nghĩa tồn tại lâu hơn? Vì không phải tác phẩm video art hay sắp đặt
nào cũng có thể mang về, mang bán hay trưng bày mãi mãi. Giá trị nhất
thời hay giá trị vĩnh cửu là điều vẫn trăn trở tôi mỗi ngày khi mang
những nhánh của nghệ thuật ra phân tích. Cần thiết một hoạt động thường
niên và xuyên suốt cho sinh viên Mỹ thuật làm nghệ thuật mới, bên cạnh
việc học tập chính thống trên ghế nhà trường[m5] . Vì nghệ thuật nào
cũng vậy, cần một cái gốc lý thuyết đủ mạnh để bứt phá khỏi những ranh
giới. “Mỗi đứa trẻ đều là một nghệ sĩ. Điều quan trọng là làm thế nào để
trở thành một nghệ sĩ khi ta lớn lên”, vì vậy sự định hướng và hỗ trợ
của những nhà đào tạo Mỹ thuật trong việc thực hành nghệ thuật của sinh
viên đóng vai trò không nhỏ trong việc đưa 20 năm về sau của Mỹ thuật
thời kì đổi mới thoát khỏi tình trạng “bình cũ rượu mới” như đã nói cách
đây 4 năm. Dù sao, thì Dự án này vẫn cần được phản hồi và lắng nghe để
phát triển rộng rãi hơn, tiếp nối cho những sinh viên có nguyện vọng
thực hành nghệ thuật.
Vi Tường Vi (SV Khoa LL& LSMT)